CON MÉN

Publié le par nhatlam

 

Bài trên internet - không biết tên tác giả
 
> Trong khai sanh nó tên là Loan. Ở nhà gọi nó là con Mén, vì hồi
> sanh nó ra nó chỉ cân được có hai kí lô tư. Bà nội nó bồng nó trên
> tay, nhỏ xíu như một con mèo. Bà cười văng cốt trầu : "Đu họ nó ! Thứ
> gì mà như con chí mén !" Từ đó, gọi nó là con Mén luôn. Nó bú sữa mẹ,
> nhưng vì nhà nghèo nên má nó không đủ sữa, dặm thêm cho nó bằng nước
> cháo, cho nên nó không mụ mẫm như phần đông các trẻ nít khác. Nó cứ
> đèo đèo, lớn chậm và ốm tong ốm teo.
>
> Bà nội nó cưng nó lắm. Bởi vì ba má nó chỉ sanh có con trai, một
> dọc ba đứa, phá phách đánh lộn tối ngày. Bà nội nó thèm có một đứa
> cháu gái, nhẹ nhàng dễ sai dễ bảo hơn. Bà thường nói : "Có đứa cháu
> gái để tao có đi đâu nó theo nó xách giỏ trầu". Một ước mơ rất tầm
> thường nói lên nét bình dị mộc mạc của tâm hồn các bà mẹ quê. Giống
> như mái nhà tranh chỉ cần có bụi chuối sau hè, có ao bèo trước ngõ…
> Giống như con rạch nhỏ, chỉ cần đều đặn có nước lớn nước ròng…
>
> Con Mén có thân hình óm o xấu xí nhưng lại có đôi mắt sáng, linh
> động, với cái miệng nhỏ chu-chu cũng dễ thương. Bà nội nó nói : "Cái
> ngữ này lớn lên rồi phải biết. Nó hỗn dàng trời !". Nói như vậy chớ bà
> ưa nhìn nó ngủ sau khi bú, nhả vú ra rồi mà miệng vẫn còn nút nút.
>
> Quê con Mén ở miệt Hậu giang một làng nhỏ nằm xa tỉnh lỵ, xẻ đôi
> bởi một con kinh đào. Vùng này chưa có đường xe chạy, nhưng có nhiều
> sông rạch nên thiên hạ đi lại bằng ghe to xuồng nhỏ. Hoặc đi bộ dọc
> theo bờ nước hay băng ngang đồng vào mùa ruộng khô. Xa xa, có những
> chiếc cầu gỗ bắc ngang kinh rạch, nối xóm này qua xóm nọ. Cầu gỗ cao
> lêu-nghêu, chân dài cắm sâu vào lòng nước như sợ nước lên làm ướt thân
> cầu. Người ta qua lại không cần lan can.
>
> Xóm con Mén tên là xóm Cầu Ngang, một cái tên nghe rất thật thà,
> làm như trên đời này còn có những cái cầu dọc vậy ! Xóm nhỏ đó cũng có
> chợ nhà lồng lợp tôn đơn-sơ. Vây quanh chợ là quán cà phê, tiệm
> chạp-phô, tạp hóa, hàng vải… và một tiệm sách, gọi là tiệm sách nhưng
> chỉ chuyên cho thuê tiểu thuyết, truyện tàu.
>
> Con Mén sanh ra ở đó. Khi nó biết đi biết chạy, bà nội nó lúc
> nào cũng kè một bên, sợ nó té sông. Vậy mà chẳng mấy lâu sau, nó biết
> lội hồi nào bà nó cũng không hay, nó học lội với ai bà nó cũng không
> biết. Mãi đến một hôm, trời nóng bức, con Mén nhảy ùm xuống kinh làm
> bà nội nó la làng chói-lói. Đến khi nhìn lại thấy nó lội như rái, bà
> mừng chảy nước mắt. Lòng bà vui lắm nhưng bà cũng chưởi đổng : "Mồ tổ
> cha mày !". Từ đó, con Mén đi đâu một mình bà cũng yên tâm. Bà nói :
> "Nó giống hệt thằng cha nó hồi nhỏ".
>
> Lớn lên một chút, con Mén lúc nào cũng ở trần, đi chân đất, chỉ
> mặc có cái quần xà-lỏn ka ki. Nó vẫn ốm tong ốm teo, nhưng không thấy
> nó bịnh bao giờ. Nó chơi với lũ trẻ hàng xóm, chơi trò con trai như
> con trai. Vậy mà bà nội nó vẫn ưa nó hơn là ba thằng anh của nó, bởi
> vì đêm nào nó cũng chui vào ngủ với bà. Bà thích vuốt tóc cho nó ngủ
> và thích nghe mùi thơm hơi thở của con Mén, như ngày xưa, hồi còn trẻ,
> bà thích nghe mùi thơm của lúa chín, gió ruộng đưa thoang thoảng vào
> nhà về đêm…
> Má con Mén mua đầu chợ bán cuối chợ. Kiếm đủ nuôi mấy miệng ăn. Nghèo
> nhưng không đói. Ba nó trốn lính một dạo, nhưng rồi cũng bị bắt. Đi
> quân dịch, làm binh nhì, rồi đi luôn không biết chừng nào giải-ngũ !
>
> Ba nó đóng ở đâu miệt Sài-Gòn. Lâu lâu về phép, ở nhà được vài
> hôm. Những hôm đó, con Mén khoái lắm, bởi vì ba nó cũng cưng nó như bà
> nội nó vậy. Sáng nào, ba nó cũng cõng nó ra tiệm cà-phê. Nó ngồi trên
> ghế đẩu cạnh ba nó, đôi mắt chỉ cao hơn mặt bàn một chút. Người lớn
> hay vò đầu nó, làm rối bồng mái tóc bom-bê. Lúc nào nó cũng được ba nó
> gọi riêng cho một tách sữa nhỏ. Sợ sữa nóng, ba nó thường sớt ra dĩa
> cho mau nguội. Nó kê miệng vào thành dĩa, hớp từng hớp nhỏ. Hai bên
> mép, sữa đóng thành hai đường trắng hếu, nhưng mắt nó ngời lên sung
> sướng. Những lúc đó, con Mén đong đưa hai chân như người ta đuổi ruồi…
>
> Rồi một hôm, Việt Cộng về xóm Cầu Ngang, bắn phá tơi bời suốt
> một đêm, sáng bữa sau rút đi mất. Thiên hạ bắt đầu bàn tán. Trời vừa
> sụp tối đã đóng cửa cài then. Đêm đêm nằm ngủ phập phồng. Sáng ra nhìn
> nhau lơ-láo. Nét thanh bình xóm nhỏ làng quê mất dạng lần lần. Người
> ta bắt đầu tản cư…
>
> Ba nó về, đưa mẹ con nó lên Sài-Gòn. Bà nội nó ở lại. Bà nói :
> "Tao già rồi, đi đâu chi ? Tụi bây lo cho sắp nhỏ đi, đừng lo cho
> tao". Bà nói cứng như vậy chớ lòng bà đau như dao cắt. Bà biết : bầy
> vịt nhỏ và mấy gốc mận gốc xoài không giúp được bà thường xuyên lên
> thăm bầy cháu. Nhứt là con Mén, rứt nó đi y như là cắt đi một núm ruột
> của bà. Hôm đó, bà nội con Mén ăn trầu nhiều hơn mọi ngày, hết miếng
> này là têm ngay miếng nọ, mắt nhìn mãi bờ kinh, không nói. Đến khi đưa
> bầy cháu xuống ghe, bà ôm con Mén vào lòng, hôn nó mà bà khóc ngất. Bà
> dúi vào tay nó tờ giấy năm chục đồng xếp nhỏ, nói trong nước mắt :
> "Nội cho con lên trển mua bánh ăn". Nó nghe nồng lên mùi cốt trầu, mùi
> bà nội nó, cái mùi mà nó đã quen thở đêm đêm khi gối đầu lên tay bà để
> đi vào giấc ngủ. Nó ôm bà mà khóc như mưa…
>
> Ghe đã đi xa, ghe máy nên đi nhanh hơn ghe chèo. Bà nội con Mén
> còn đứng ở bờ kinh, mắt rõi theo ghe mà nghe như người bà bị tê dại.
> Kinh đào dài tun hút. Ghe đã mất dạng từ lâu mà bà vẫn nhìn mãi về
> phía đầu kinh. Tuốt ở đầu kinh - xa lắm - có một lằn dài gạch ngang,
> người ta gọi là chân trời…
>
> --oOo--
>
> Ba con Mén hốt hụi vay nợ mua một căn nhà nhỏ vách ván lợp tôn ở
> xóm Bộng, bên kia sông Khánh Hội. Gọi là xóm Bộng bởi vì ở đó có cái
> ống cống thật to để nước ruộng vào ra khi nước lớn nước ròng. Dân
> nghèo tứ xứ tản cư về đây, ngày một nhiều, nhà nho nhỏ cất dọc cất
> ngang, mọc lên như nấm. Cứ có chỗ trống là cất chen vào. Ngoài mặt lộ
> hết đất, họ cất tràn ra ruộng. Nhà này tựa vào nhà kia như sợ ngã, sát
> nhau đến độ không còn chỗ để làm đường đi ! Muốn vào xóm, có đoạn đi
> trên bờ đê – gọi là đê nhưng là bờ ruộng cũ bây giờ người ta bồi rộng
> ra thêm một chút – có đoạn đi trên mấy tấm ván gập gềnh bắc ngang
> đường nước, có đoạn phải bước hẳn vào nhà người ta để đi qua. Nhà
> lụp-xụp thấp lè-tè nên cứ phải cúi lom-khom, có khi bước cạnh vợ chồng
> người ta đang nằm ngủ trong nhà, dưới đất !
>
> Mái nhà con Mén thuộc vào hạng cũng khá cao trong xóm. Ba nó
> phải đưa tay thẳng lên mới đụng. Nhà nó được lót gạch bông phần nền
> đất, còn nửa phần sau là đóng cừ lót ván. Ông chủ cũ nói với ba con
> Mén : "Làm tới đó tôi hết tiền. Thôi thì tạm một khúc nhà sàn, chừng
> nào cậu muốn, cậu đắp nền thêm". Rồi ông đứng trên sàn nhún-nhún :
> "Ván còn tốt, còn chịu được năm ba mùa lận". Năm ba mùa đây có nghĩa
> là năm ba mùa nước ngập. Những hôm mưa nhiều, nước không chảy kịp ra
> sông, nước lên lé-đé mặt sàn. Có nơi nước tràn vào nhà, ngập mấy hôm
> mới rút. Những hôm đó, người ta treo hết đồ lên nóc, treo vài cái võng
> để ngủ tòn ten giữa vời…
>
> Nhà con Mén không có đồ đạc gì nhiều : một vài cái rương chất
> trong một góc, một cái tủ nhỏ kê sát vào vách, quần áo máng trên mấy
> cây đinh đóng trên vách đối diện, bếp dầu hôi sóng chén dồn vào một
> góc phía sau. Cái gì cũng tấn vào vách vào góc để chừa khoảng trống
> giữa nhà dùng làm chỗ ăn chỗ ngủ. Phía sau nhà là sàn nước lộ thiên.
> Nước chứa trong hai thùng phi nhà binh màu cứt ngựa mà ba con Mén xin
> từ đơn vị đem về. Tắm rửa giặt giũ ở đó, và về đêm, phóng uế cũng ở đó
> luôn.
> Khu này không có điện nước. Cho nên nhà nào cũng có vài cây đèn
> dầu hôi và đôi ba thùng phi. Mỗi ngày, có xe xi-tẹt đến bán nước-
> người ta gọi là "đổi nước" – Họ kéo ống cao-su nhỏ bằng cườm tay, chắp
> nối thật nhiều khúc mới đủ dài để vào sâu trong xóm. Tiếng máy bơm của
> họ kêu thật lớn, xành xạch xành xạch điếc tai. Nhưng cũng nhờ nó mà
> người trong xóm biết là xi-tẹt nước đến rồi ! Xi-tẹt nước chỉ "làm ăn"
> trong mùa nắng thôi…
>
> Về đây, con Mén ngủ với ba nó, ngủ trên võng. Má nó và ba thằng
> con trai ngủ dưới gạch. Đêm đầu, con Mén không chịu ngủ, cứ đòi về bà
> nội. Nó ngồi bẹp dưới đất, khóc ư-ử. Lâu lâu gọi một cách thảm não :
> "Bà nội ơi !" Tiếng "ơi" của nó kéo dài ra, làm má nó cũng nhớ nhà nhớ
> đất, nước mắt chảy quanh. Ba nó thổi tắt đèn, vói tay ôm nó vào lòng,
> nằm trên võng đong đưa dỗ : "Nín đi con, nín. Ngủ với ba cũng giống
> như ngủ với bà nội chớ gì. Rồi mai mốt bà nội con lên ở với con
> nghen". Tiếng "nghen" bỗng nghẹn ngang nơi cổ, ba nó kềm lắm mới khỏi
> phải nấc lên. Tuy nhiên, trong bóng đêm, nước mắt cũng âm thầm chảy
> dài trên má…
>
> --oOo--
>
> Mỗi ngày, ba con Mén đi làm trong đơn vị, sáng đi chiều về, đi
> bằng xe buýt. Má nó chưa quen nước quen cái nên ở nhà vá áo nấu cơm.
> Anh em tụi nó lân la làm quen lũ nhỏ trong xóm. Dù ở giữa lòng thành
> phố, trò chơi của tụi nó vẫn mộc-mạc thô-sơ như thuở còn dưới ruộng :
> bắn bi, búng dây thun, lấy nút khoén làm mề-đai hay in cát giả làm
> bánh.
>
> Ít lâu sau, má con Mén được người hàng xóm giới thiệu vào làm
> phu trong nhà máy ve chai bên kia sông. Mới đầu còn bỡ ngỡ, làm sai
> làm trật. Chiều nào về, má nó cũng buồn thiu, ra ngồi trên sàn nước,
> nhìn khoảng trời mở ngỏ trên cao, lâu lâu thở dài. Nhưng lần hồi má nó
> cũng quen tay, thêm tánh siêng-năng cần-cù, nên mấy thầy giám thị cũng
> thương tình nâng đỡ. Nhờ vậy má nó mới vững lòng tin ở ngày mai. Ngày
> mai, đối với ba má con Mén, thật là giản dị : "Chừng yên, mình về dưới
> bà nội tụi nhỏ, lảnh mấy công ruộng mà làm cũng dư sống". Cái hình ảnh
> của ngày mai đó, người tản cư nào cũng nghĩ giống như nhau : yên rồi
> về quê làm lại cuộc đời. Họ đã rời làng bỏ xóm ra đi, đi để còn sống
> mà trở về, nhưng họ vẫn mang theo trong lòng gốc dừa cây cau chậu
> kiểng. Họ không bám được đất, nhưng họ không để mất được gốc. Chính
> tình cảm quê hương sâu đậm đó đã giúp họ can-đảm nhận chịu cuộc sống
> tạm bợ ngày hôm nay. Ngày qua ngày, họ mớm niềm tin bằng hy vọng. Và
> ngày qua ngày họ nuôi hy vọng bằng niềm tin ! Cứ lẩn-quẩn loanh-quanh
> như vậy cho đến một ngày nào đó - chưa phải là cái ngày mai chờ đợi -
> người già tắt thở với niềm tin và trẻ con lớn lên không biết phải hy
> vọng ở cái gì… Chỉ còn thế hệ của ba má con Mén là lây lất sống trong
> lòng đô thị, ví mình như cây chùm gởi, còn biết thế nào là niềm đau
> quê hương nhưng vẫn mỏi mòn chờ đợi : "Ngày mai… Ngày mai, rồi trời sẽ
> lại sáng".
>
> --oOo--
>
> Mấy anh con Mén đều được đi học, chỉ có nó là chưa. Có lẽ tại
> vì nó gầy còm nhỏ thó nên ba má nó quên tuổi thật của nó đi, cứ nghĩ :
> "Sang năm là đến phiên con Mén". Nhưng rồi nó vẫn còi-còi như vậy
> hoài, có lẽ còn lâu mới đi học !
>
> Buổi sáng, ăn cháo xong là cả nhà đi hết. Con Mén ở lại coi nhà.
> Tiếng là coi nhà chớ lúc nào cũng thấy nó la-cà ở hàng xóm, làm bánh
> giả, búng dây thun. Nó búng dây thun giỏi nhứt xóm. Đã khéo tay lại
> biết tính toán nên ngày nào nó cũng ăn của trẻ con cùng lứa rất nhiều
> dây thun. Về nhà, nó cho vào túi ni-long cất kỹ, bởi vì vòng dây thun
> là "tiền" của tụi nhỏ. Năm vòng thun "mua" được cái nút khoén lô-canh
> (la-ve, nước ngọt) mười vòng thun một nút khoén ngoại quốc (các loại
> chai nhập cảng) và phải tới hai chục vòng thun mới có được lon cô-ca
> không, thật hấp dẫn với nền đỏ tươi in chữ trắng… Vòng thun có giá trị
> như vậy cho nên đứa nào cũng ráng kiếm cho thật nhiều. Rồi cũng giấu
> kỹ. Rồi cũng đếm tới đếm lui, y như người lớn đếm tiền thật.
>
> Một buổi mai, con Mén mang bọc dây thun ra đầu ngõ tìm bạn. Ở
> đây, có một quán cà-phê hủ tiếu và vài hàng quà bánh điểm tâm. Một bà
> già bán xôi thấy bọc ni-long dây thun con Mén nhét tòn ten ở lưng
> quần, bèn hỏi :"Dây thun đâu nhiều vậy cháu ?". Nó trả lời là dây thun
> của nó. Bà ta cười hiền hòa : "Vậy hà. Chớ cháu có bán dây thun hôn,
> bà mua cho. Để cột mấy bọc xôi ý mà". Ở đây, mấy người đi làm sớm
> không có thì giờ ăn sáng, ghé qua mua gói xôi mang theo để lúc nào
> tiện thì mở ra ăn. Xôi vẫn được gói bằng lá chuối, nhưng sau đó được
> cho vào bọc ni-long có sợi thun thắt lại. Vừa sạch vừa gọn.
>
> Nghe hỏi, con Mén phân vân. Tới tuổi này, nó chưa biết đi mua
> một cái gì bằng tiền thiệt hết. Huống chi nói đến chuyện bán ! Nó chỉ
> biết giả mua giả bán nút khoén, hộp lon, trong thế giới trẻ con nhiều
> tưởng tượng của nó thôi. Tiền thiệt thì nó chỉ biết có tờ giấy năm
> chục đồng mà bà nội nó cho nó hồi đó. Nó đưa má nó cất rồi nó quên
> luôn tới giờ. Thật ra, nó chỉ biết tờ giấy đó là tiền nhưng chẳng biết
> giá trị là bao nhiêu và cũng không biết dùng tiền đó để làm gì. Bởi
> vì, trong xã hội trẻ con của nó, chỉ có dây thun là có giá !
>
> Thấy nó đứng ngớ ra mà miệng cười mỉm mỉm, bà bán xôi hiểu ngay,
> nên đề nghị : "Như vầy nghen : cháu cho bà túi dây thun, bà cho cháu
> cục xôi bự này nè". Nó nhìn theo tay bà chỉ : mèng ơi ! cục xôi bằng
> "bắp đùi" nằm trong lá chuối xanh láng mướt, ló ra hai đầu vàng hực có
> mấy miếng dừa lòi ra trắng hếu. Nó nuốt nước miếng, gật đầu. Vậy là
> lần đầu tiên con Mén biết thế nào là buôn bán trong xã hội của người
> lớn .
>
> Từ đó, nó thường đem túi ni-long dây thun ra ngõ "mua" xôi. Bà
> bán xôi thương nó lắm, bởi vì lần nào nó mở hàng bà cũng đều bán đắt.
> Nhiều hôm vắng nó bà cũng nhớ. Những hôm đó, con Mén "hết tiền". Nhưng
> thèm xôi, có khi nó cũng mò ra đầu ngõ, đứng xa xa nhìn thau xôi của
> bà lão. Thau xôi được phủ kín lá chuối, nhưng trong tưởng tượng nó
> cũng thấy được màu xôi vàng hực ! Thấy tội nghiệp, một hôm bà bán xôi
> gọi nó lại, đưa nó tờ giấy bạc : "Nè ! Lấy tiền này mua xôi mở hàng
> cho bà đi cháu". Nó làm theo như cái máy. Bà bán xôi cảm động, kéo nó
> ngồi xuống cạnh bà. Nó ăn xôi, mắt ngời lên sung sướng. Nó ốm nhom
> nhưng gương mặt nó thật kháu khỉnh. Mái tóc bom-bê cắt ngắn làm cho cổ
> nó dài ra. Bà vuốt tóc nó, nghĩ : "Con nhà ai mà dễ thương quá !".
>
> Được bàn tay khẳng khiu của bà già vuốt tóc, bỗng nhiên con Mén
> nghe nhơ-nhớ một cái gì. Một cái gì không rõ lắm nhưng là một cái gì
> thật quen thuộc. Hình như là một cảm giác êm êm, khoái khoái, một cảm
> giác mà từ lâu- rất lâu - nó không nghe thấy nữa. Nó mang máng nhớ một
> cái gì xa thật xa, một hình ảnh, một cái tên, một người… Nó ngừng
> nhai, miếng xôi trong miệng đội phồng một bên má. Nó nhìn lên mặt bà
> bán xôi : má hóp, trán nhăn, tóc lưa thưa bạc. Đúng lúc đó, từ tiềm
> thức của nó bật lên hình ảnh của bà nội nó. Chỉ trong có một giây mà
> nó nhớ lại hết : từ bàn tay vuốt tóc, từ cánh tay gối đầu, từ mùi cốt
> trầu hăng-hăng mà nó ghiền thở đêm đêm để ngủ. Nó nghe nghẹn ở ngực.
> Nó nghe như muốn khóc. Môi dưới nó trề ra. Miệng nó méo xệch. Nó buông
> cục xôi, đứng lên chạy ù vào ngõ. Vừa chạy, vừa kêu từng tiếng thật
> rã-rời : "Bà…nội…ơi… !" Tiếng "ơi " của nó kéo dài ra trong xóm, nức
> nở như một đường cày trên mặt ruộng…
>
> --oOo--
>
> Việt Cộng về chiếm hết mấy làng, trong đó có xóm Cầu Ngang của
> con Mén. Ít lâu sau, có tin bà nội nó chết. Ba má nó không dám về chịu
> tang, chôn cất, phần vì không có tiền, phần vì sợ Việt Cộng. Ba nó lấy
> một cái rương kê vào giữa vách, đặt lên đó một chén gạo và hai cây đèn
> cầy. Đốt đèn, đốt nhang cắm vào chén gạo, xong, ba má nó vừa lạy vừa
> khóc. Lần đầu tiên con Mén thấy ba nó khóc. Không biết gì, nhưng sao
> nó cũng muốn khóc theo. Mấy thằng anh nó ngồi xếp bằng một hàng, im
> thin thít. Sau đó, ba nó ôm nó vào lòng, ngồi nhìn khói nhan và hoa
> đèn lâu thật lâu. Nó hết nhìn cái rương lại nhìn mặt ba nó.Tự nhiên nó
> thấy thương ba nó vô cùng.
> Mãi sau này con Mén mới biết cái rương đó là bàn thờ bà nội nó.
>
> --oOo--
>
> Bây giờ, con Mén cũng được đi học. Bây giờ, ba nó cũng sắm được
> chiếc xe đạp để đi làm. Má nó thì vẫn đi đò ngang để qua nhà máy ve
> chai. Mấy anh nó, vì trường cũ hết lớp phải qua trường khác xa hơn,
> vẫn đi bộ.
>
> Má nó đã lên cấp thợ, nhờ vậy mà trong nhà thấy dễ thở hơn, sắm
> thêm một số đồ đạc và má nó có đeo một sợi dây chuyền… Chớ ba nó thì
> vẫn còn lẹt-đẹt ở cấp binh nhì, loại binh nhì dùng sai vặt trong văn
> phòng, đơn vị.
>
> Nhờ đi học, con Mén mới biết nó tên thật là Loan. Hôm đưa nó vào
> trường, ba nó dặn : " Khi nào cô giáo điểm danh, kêu Lê-thị-Loan thì
> con hô lớn lên có mặt. Nghe con ! "Nó ngạc nhiên : "Ủa ? Con tên là
> Mén mà !" Ba nó phải giải nghĩa rằng Loan là tên trong còn Mén là tên
> ngoài, ra đường mình lấy tên ngoài chớ vào trường là phải lấy tên
> trong vân vân… Đối với nó, ngoài trong gì lộn xộn quá. Nó chỉ biết
> rằng tên Loan nghe thật dễ thương nhưng lạ hoắc, còn Mén thì thật là
> quen tai. Tuy nhiên, có cái tên dễ thương, nó cũng nghe lòng
> phơi-phới.
>
> Nhờ đi học, con Mén hết ở trần, hết đi chân đất, nhưng tóc vẫn
> hớt bom-bê cao. Nó đội nón vải có bo như tai bèo, mặc áo trắng tay
> phùng quần dài đen, chân mang dép Nhựt. Bây giờ, thật sự nó mới có nét
> con gái ! Ba nó nhìn nó trìu mến : "Mẹ họ ! Con gái của ba coi cũng
> đặng ớn !" Rồi ba nó hôn nó đầy mặt. Nó rút cổ lại vì nhột, cười
> khúc-khích. Tình thương đâu đó bỗng trào dâng miên man. Giống như nước
> triều lên ôm xóm Bộng, âm-thầm nhưng thật là chan-chứa.
>
> Con Mén càng lớn, ba nó càng cưng nó nhiều. Bởi vì nó thông
> minh, học giỏi. Và bởi vì nó mang nhiều nét của bà nội nó. Ba nó
> thường nhìn nó, nói : "Thứ gì mà giống bà nội như in !" Điều mà ba nó
> không để ý là con Mén còn giống bà nội nó ở chỗ hay chửi đổng "Mồ tổ
> cha nó !" mỗi khi nó bực mình chuyện gì. Có lẽ tại vì nó chửi lầm-bầm
> nên ba nó không nghe.
>
> Mấy anh con Mén đi học buổi sáng, nó đi học buổi chiều. Thành ra
> lúc nào trong nhà cũng có đứa học ê a, đứa nằm sấp xuống gạch nắn-nót
> làm bài. Hầu hết tụi nhỏ trong xóm đều học chung một trường, nên đi và
> về cùng một lúc, đứa trước đứa sau đi thành một hàng dài. Đến khi tụi
> nó học bài cũng nghe uềnh-oang như tiếng ễnh-ương vào mùa nước nổi.
>
> Trưa, con Mén cuốc bộ đi học. Chiều ba nó đi làm về, đạp xe ghé
> ngang trường rước nó. Những lúc đó nó thấy hãnh-diện vô-cùng. Ngồi
> trên bọt-ba-ga, cặp táp đeo lủng lẳng ở cổ, hai bàn tay nhỏ nắm lấy
> dây nịt của ba nó để giữ thăng-bằng, nó nói chuyện huyên-thuyên, hỏi
> ba nó đủ thứ. Ba nó lúc nào cũng có câu trả lời, cũng góp vào câu
> chuyện rất hào hứng chớ không phải ậm-à ậm-ừ. Cho nên, đối với nó,
> trên đời này chỉ có ba nó là nhứt !
>
> Vậy mà thời gian sau này, ba nó bị cấm-trại liên-miên. Nó đành
> đi học một mình và về một mình. Tối, nó ngủ một mình ên trên võng. Bây
> giờ nó lớn, nên không gào khóc như thuở nó mới xa bà nội nó. Nó biết
> xấu hổ, nên úp mặt vào chiếc áo nhà binh của ba nó âm thầm khóc
> rấm-rứt. Rồi một lúc nó cũng ngủ thiếp đi, ôm chiếc áo như ôm lưng ba
> nó vậy.
>
> --oOo--
>
> Việt Cộng tràn về chiếm hết miền Nam. Mấy ngày cuối cùng của
> tháng tư 75 thật là kinh hoàng. Thiên hạ rần-rần, nhốn-nha nhốn-nháo.
> Ba con Mén chạy bộ về đến nhà, mồ hôi mồ kê, mặt xanh như tàu lá, chỉ
> mặc có cái quần đùi. Ba nó hổn-hển nói với má nó : "Mẹ họ ! Trong khi
> lộn-xộn, thằng nào nó đớp cha nó chiếc xe đạp của anh, làm anh chạy bộ
> về muốn tắt thở ". Má nó lo lắng : "Còn quần áo của anh đâu ?" Ba nó
> nhăn nhó : "Cởi liệng cha nó rồi. Mặc để Việt Cộng nó bắn thấy tiên tổ
> à !". Rồi ba nó phun nước miếng cái phụt như phun một cái gì thật
> đắng. Má nó vội đưa cho ly nước, ba nó cầm lấy, uống ừng-ực như người
> bị mắc xương, mắt lồi ra căm phẫn. Không biết Việt Cộng ra sao, nhưng
> thấy ba nó tả-tơi như vậy con Mén cũng phát tức. Nó lầm-bầm chưởi đổng
> : "Mồ tổ cha nó !"
>
> --oOo--
>
> Ít lâu sau, con Mén đã biết Việt Cộng là gì. Nó cũng bắt chước
> người lớn, gọi trổng là "họ", chớ không hiểu rằng tiếng "họ" mà người
> lớn dùng có ý nghĩa mỉa-mai cay đắng, bởi vì bây giờ mới thấy giữa
> "họ" và "mình" có quá nhiều dị-biệt.
>
> "Họ" bây giờ tên là "cách-mạng". Ba con Mén bây giờ bị "họ" gọi
> là "ngụy quân". Má con Mén bây giờ lúc nào cũng tự xưng là "vợ ngụy"
> mặc dù thuộc thành phần công nhân lao động.
>
> Xóm Bộng bây giờ cũng đổi thay bề mặt. Vựa gạo của chú Chành
> -người Tàu- bị tịch thu để biến thành trụ sở "Ủy ban nhân dân". Người
> lạ ở đâu về đó làm chủ tịch, thơ-ký. Chú Năm hớt tóc đầu ngõ bỗng
> thành ông "tổ trưởng", còn bác Bảy thợ hồ được thiên hạ gọi bằng "tổ
> phó an ninh". Chỉ có dân trong xóm vẫn còn là dân trong xóm ! Thiên hạ
> "nhong nhóng" đợi một thời gian coi tình hình ra sao, nhưng rồi ít lâu
> sau cũng chẳng thấy ai rục rịch dọn về quê về làng. Mong ước bình dị
> "yên rồi, về quê sanh sống" - một mong ước được chắt chiu nuôi dưỡng
> từ bao nhiêu năm - bây giờ giống như bọt nước bờ sông từ từ tan rã.
> Cái "Ngày mai trời lại sáng" bây giờ thật sự chỉ là một giấc mộng !
> Thiên hạ thường chép miệng : "Ở dưới quê họ cũng tịch thâu hết rồi. Về
> làm cái khỉ gì ? Ở đâu cũng vậy thôi !". Dân tản cư bỗng thấy mình như
> bị mồ côi, vĩnh-viễn bị cắt đứt với gốc dừa cây cau chậu kiểng. Từ
> thân chùm gởi họ đã trở thành đám lục-bình. Xóm Bộng mặc-nhiên thành
> điểm tựa để đám lục bình bám vào đó làm một quê hương , đất đứng.
>
> Người trong xóm bây giờ thấy gần gũi nhau hơn. Làm như là không
> phải dân tứ xứ đến đây, mà như là tất cả đều sanh trưởng ở xóm Bộng.
> Bây giờ họ mới nhận thấy rằng họ giống nhau từ suy-tư đến nếp sống, từ
> cách ăn mặc đến lời lẽ nói năng. Họ không biết rằng biến thiên của
> thời cuộc đã cho họ có một đối tượng - thế giới cộng sản và con người
> cộng sản - để nhận-xét và so-sánh. Đối tượng đó bây giờ thật rõ nét,
> không còn được ngụy-trang bởi những mỹ-từ. Cho nên họ nhìn thấy không
> điểm nào giống họ hết, từ con người đến phong tục tập quán. Tự nhiên,
> họ cùng đứng về một phía và họ còn thấy cần tựa vào nhau để sinh tồn.
> Cũng giống như nhà của họ ở : phải xây cất bám vào nhau, kèo cột câu
> vào nhau, phên vách nối vào nhau để đứng vững. Xóm Bộng chưa bao giờ
> biết bão lụt, nhưng trong nội tâm người xóm Bộng bây giờ đang bão lụt
> tơi-bời…
>
> --oOo--
>
> Ba con Mén đi học tập ba hôm rồi về nằm nhà gác tay lên trán. Má
> nó vẫn đi làm. Anh em nó vẫn đi học.
>
> Thời gian sau, ba nó cũng kiếm được việc làm ở bến tàu
> Khánh-Hội, sáng đi chiều về. Đêm đêm, ba má nó thay phiên nhau đi họp
> phường hoặc họp tổ. Lâu lâu, thằng anh lớn của nó đại-diện ba má ra
> phòng họp ngồi cho có mặt. Những lúc đó, thấy nó mang theo hoặc quyển
> sách hoặc cuốn tập để thừa dịp có đèn sáng mà học bài cho ngày hôm
> sau…
>
> Bỗng một đêm, công an khu-vực cầm đèn bấm đưa bộ đội đến bắt ba
> con Mén dẫn đi. Cả xóm nhốn-nháo trong bóng tối. Má nó chạy theo kêu
> khóc, trợt bờ đê té lên té xuống. Đến đầu ngõ có đèn sáng, ba nó nói
> với má nó : "Chắc họ bắt lầm, chớ anh không có làm gì hết. Em yên
> tâm."
>
> Ở nhà, mấy anh em nó thắp đèn rồi ngồi nhìn nhau mếu-máo. Hàng
> xóm thay nhau đến ngồi với tụi nó cho đến khi má nó trở về, đầu cổ bơ
> phờ quần áo lấm lem bùn đất. Họ an ủi má nó, xì-xầm bàn-tán cho tới
> khuya mới ra về.
>
> Đóng cửa tắt đèn từ lâu mà con Mén nằm trên võng còn nghe má nó
> khóc thút-thít. Nó cảm thấy thương má nó, thương ba nó. Rồi nó đâm tức
> giận mấy thằng công-an bộ-đội. Kềm không được, nó buột miệng chửi lớn
> :"Mồ tổ cha nó !". Tiếng của nó lanh-lảnh, sắc bén, rạch bóng đêm như
> một lưỡi dao lam. Má nó giật mình, ngừng khóc, vói tay mò-mẫm rờ đầu
> nó. Nó nắm lấy bàn tay áp vào một bên má như muốn chia sớt niềm đau.
> Má nó bỗng nghe bàn tay mình ươn-ướt.
>
> Mấy hôm sau, vẫn không thấy ba nó về. Trái lại, công an khu vực
> đến thăm má nó thường hơn. Và lần nào cũng khuyên : "Chị cứ yên tâm.
> Nếu nhà nước xét thấy anh ấy không có nợ máu với nhân-dân, anh ấy sẽ
> được thả về thôi. Ta sáng suốt chớ không ác-ôn như ngụy đâu, chị ạ !"
>
> Ít lâu sau, có tin ba con Mén bị đưa đi học tập cải-tạo ở đâu
> ngoài Trung. Má nó khóc hết nước mắt. Tên công-an khu-vực lại đến nhà
> khuyên : "Đi học tập chớ đi tù đâu mà chị sợ. Cứ học tập tốt là được
> về ngay thôi. Yên chí !" Thoáng nghe như vậy, con Mén tức cành hông.
> Nó nhìn tên công-an chỉ có nửa con mắt !
>
> --oOo--
>
> Má con Mén bị "họ" cho nghỉ việc. Gọn như liệng một món đồ vô
> dụng vào sọt rát ! Tên thủ-trưởng gọi má nó vào văn phòng, nói bằng
> một giọng trắng nhách như vôi : "Tập thể đã nhất trí cho chị nghỉ việc
> ngay từ bây giờ, bởi vì chị không còn đủ điều-kiện để phục-vụ nhân-dân
> nữa. Chị lấy hết đồ đạc của chị rồi đi về đi. "Đồ đạc là cái áo, cái
> khăn lông, cái nón lá và đôi dép cao su đúc. Một tên an-ninh đi theo
> đến cổng, dặn : "Chị đừng trở lại đây làm gì nữa. Không tốt đâu". Má
> nó lầm lủi đi, chẳng nói chẳng rằng. Cũng chẳng nhỏ một giọt nước mắt.
> Bởi vì má nó đã chuẩn bị tinh thần từ ngày biết tin ba nó đi học tập
> cải tạo. Dưới chế-độ cộng-sản, đã là vợ con của "ngụy " là phải biết
> dọn mình chịu đựng sự kỳ-thị của kẻ cầm quyền…
>
> Khi má con Mén về đến nhà thì tụi nhỏ đã đi hết, đứa đi học, đứa
> đi lao-động trong trường. Má nó bèn dọn dẹp đồ đạc rồi nấu cơm một
> cách thản nhiên như chẳng có gì xảy ra hết. Bình thường, má nó không
> về giờ này, nên hàng xóm để ý. Vài người chạy sang hỏi han như trong
> gia đình : "Bộ có chuyện gì sao mà má con Mén về nhà giờ này vậy ?"
> Hỏi, nhưng trong lòng họ đã đoán ra câu trả lời hết chín phần mười. Má
> nó cũng nghe an-ủi : "Dạ thì họ đuổi chớ sao ! Ngụy mà ! Kể số gì ?"
> Rồi má nó cười thật mỉa mai. Một bà già phát tức, phun cốt trầu cái
> phẹt : "Hứ ! Cái giống gì mà thiệt vô nhân đạo. Người ta đã nghèo, một
> thân một mình làm nuôi bầy con mà cũng đuổi cho đành !" Một bà khác
> thêm vào : "Thôi đi ! Nói gì cái thứ đó ! Mồ ông mả cha của tụi nó mà
> tụi nó còn coi không ra gì thì nói chi tới bà con mình". Nghe mấy
> tiếng "bà con mình" bỗng nhiên má con Mén mủi lòng, chảy nước mắt. Từ
> ngày bỏ xóm Cầu Ngang tạm cư ở xóm Bộng này, mặc dù có chồng con ở một
> bên, má nó vẫn nghe bơ-vơ lạ-lùng.
>
> Má nó thấy thiếu con kinh đào bờ đê thẳng tấp, thiếu chiếc cầu
> gỗ nhón cao chân dài, thiếu màu vàng ruộng lúa, thiếu mùi thơm bông
> cau, thiếu họ-hàng ruột thịt… Những thứ mà má nó đã thở từ những hơi
> thở đầu đời. Những thứ mà má nó đã nhìn từ khi nụ nhìn biết phân biệt.
> Tất cả, tất cả đã trở thành nhịp sống của chính bản thân của má con
> Mén. Mất đi những thứ đó, má nó cảm thấy như bị tách biệt ra khỏi cuộc
> đời này… Xóm Bộng tuy hiền, nhưng trước đây người cùng xóm đối xử với
> nhau còn nhiều dè-dặt, ít qua lại với nhau, gặp nhau chào hỏi xã-giao
> lấy lệ. Do đó, mặc dù sống trong xóm nhỏ đông người, má con Mén vẫn
> thấy như mình sống lẻ loi giữa đồng giữa ruộng. Niềm đau đó má nó dìm
> sâu trong nội tâm từ bao lâu nay, bây giờ mấy tiếng "bà con mình" thật
> chất-phác nhưng thật gần gũi, thật đậm đà tình lân lý, đã mở ngỏ khơi
> nguồn. Má nó khóc mà nghe lòng thật ấm-cúng và cũng thật là thênh
> thang trải rộng. Giống như ruộng lúa xóm Cầu Ngang được ươm vàng dưới
> nắng, cuối mùa mưa…
>
> --oOo--
>
> Biết thân phận mình không làm sao tìm được việc làm ổn định, dù
> làm phu quét đường đổ phẩn, má con Mén cầm thế một mớ nữ trang quần áo
> rồi đi buôn đầu chợ bán cuối chợ. Tưởng giống như ngày xưa ở dưới quê,
> té ra thật là chật vật. Ở đây và bây giờ, có một trăm người bán nhưng
> không có một vạn người mua. Quá nhiều người bán bởi vì những người này
> một số không chịu đi làm cho chế độ, một số bị chế độ sa thải đành
> buôn bán lắt nhắt để kiếm sống. Quá ít người mua bởi vì thiên hạ không
> còn tiền…
>
> Anh em con Mén cũng đã nghỉ học, ở nhà giúp má tụi nó bằng cách
> đi bươi đống rác lượm ve chai, giấy vụn, bao ni lông… Má con Mén cắt
> bao bố tời may lại thành túi nhỏ cỡ bằng ba giỏ đi chợ, có hai quai để
> tụi nó mang vào vai vào cổ. Mấy đứa lớn mang ba túi mỗi đứa, mấy đứa
> nhỏ tùy bữa mà đeo khi một khi hai. Đứa nào cũng cầm một que sắt đầu
> uốn cong như cái móc. Thằng lớn hay đùa : "Tụi mình bây giờ thành Cái
> Bang hết. Tao là trưởng lão ba túi, còn tụi bây là đệ tử. Mỗi ngày tủa
> ra đi hành hiệp trên mấy đống rác Sài Gòn quang vinh !" Rồi tụi nó
> cười vui như chẳng biết phiền lụy là gì.
>
> Má con Mén thì khác. Ưu tư nằm ngay trong ánh mắt nụ cười. Những
> đêm trằn trọc đã đào sâu đôi má. Càng ngày, con người càng héo hon.
> Tuy nhiên, chẳng bao giờ nghe má nó mở miệng than một lời. Thấy tội
> nghiệp, hàng xóm thừơng qua thăm mẹ con con Mén để phụ tụi nhỏ lựa ra
> và xếp riêng thành đống miểng chai theo miểng chai, ni long theo ni
> long, giấy theo giấy v.v… Lâu lâu họ cũng mang cho vài khúc mía, trái
> dừa hoặc mấy nhúm tôm khô. Có gì cho nấy, không còn nề hà dở ngon hay
> nhiều ít. Má con Mén đều nhận hết, không bao giờ từ chối đẩy đưa. Bây
> giờ, làm như là người ta sống thật tình với nhau hơn hồi trước. Làm
> như là thiên hạ cần có nhau như hơi thở cần cho cuộc đời. Có lẽ bởi vì
> họ đã mất tất cả những gì họ đã có, bây giờ họ chỉ còn lại có nhau
> thôi…
>
> Lần hồi rồi má con Mén cũng phải bán đi chút đỉnh đồ đạc trong
> nhà để đủ có miếng ăn cho lũ nhỏ. Lúc này tụi nó lớn thấy rõ, mặc dù
> ăn uống kham khổ. Mấy bà hàng xóm thường nói : "Trời sanh, trời nuôi".
> Mà thật, tới con Mén cũng cao lên, tuy vẫn còn gầy. Tay chân hơi ghẻ
> lở nhưng gương mặt vẫn kháu khỉnh nhờ mái tóc vẫn hớt bom-bê cao. Nó
> không chịu để tóc dài. Mỗi lần má nó đề nghị "Để tóc dài đi con cho nó
> thành con gái" nó lắc đầu nguầy nguậy, tóc bom-bê xòe ra như rẻ quạt :
> "Nực thấy mồ…" Mấy hôm đầu đi bươi rác, nó còn mang dép Nhựt. Sau đó,
> nó lượm một mớ giày Bata rách mũi, chọn được hai chiếc vừa chân thì
> một xanh một vàng. Nó mang vào, hí hửng : "Kệ nó ! Khác màu như vậy
> khỏi sợ chúng nó ăn cắp". Rồi nó đem đôi dép Nhựt rửa sạch, cất kỹ.
> Không ai hỏi, nhưng nó vẫn giải thích : "Để giành mai mốt có đi học
> lại, có mà mang" Nghe nó nói, thằng anh hai nó nhìn nó rất lâu, bồi
> hồi xúc động. Anh nó nhận thấy con Mén không còn là con nít nữa.
>
> --oOo--
>
> Má con Mén có một người chị ruột tên Ánh -Nguyễn Thị Ánh- hồi đó
> nấu bếp cho vợ chồng một ông Tây. Khi gia đình ông này dọn về xứ, chị
> Ánh cũng đi theo họ rồi ở luôn bên đó. Ít lâu sau, có tin chỉ lấy
> chồng người Pháp rồi hai vợ chồng đưa nhau qua làm ăn ở Phi-Châu. Chỉ
> cũng đã vào quốc tịch Pháp và đổi tên là Anne – bà Anne Brioude.
>
> Khi má con Mén bắt đầu cạy gạch bông nền nhà lên bán để độ nhựt
> – thằng anh con Mén nói "hết ăn tủ tới ăn rương, bây giờ tụi mình ăn
> tới gạch !" thì chị Ánh ở bên tây về kiếm thăm. Ông chồng khuyên không
> nên về sợ gặp khó khăn, nhưng chỉ vẩn quyết định : "Tôi phải về kiếm
> tụi nó coi ra sao. Nghe nói bây giờ bên Việt Nam dân chúng đói khổ
> lắm". Rồi chị mua thật nhiều hàng vải quà cáp làm như gia đình chị bên
> nhà còn rất đông. Thật ra, chị Ánh chỉ còn có má con Mén là ruột thịt,
> nhưng mười mấy năm xa cách đã làm cho tình thương trong lòng chị thật
> mênh-mông, không bờ không bến, đến độ chị không đo lường được nữa
> không phân biệt được nữa đâu là tình thương em đâu là tình thương quê
> hương…
>
> Về Sàigòn – chị Ánh vẫn gọi là Sàigòn vì thói quen – chị ở
> khách sạn Hữu-Nghị. Ngày ngày chị đi dò hỏi tin tức má con Mén, từ
> những người quen xa xa chỉ qua những người cùng gốc ở Cầu Ngang nhưng
> đã lên làm ăn ở thành thị từ trước… Cứ phăn lần phăn lần rồi chị Ánh
> cũng tìm ra xóm Bộng. Đến đây, chị gặp một trở ngại lớn : người trong
> xóm không biết ai tên là Nguyễn thị Hoa hết. Chị giải thích dài dài :
> "Nó nhỏ nhỏ con, người tròn trịa trắng trẻo, năm nay chừng băm mấy chớ
> chưa già lắm" Chị tả hình dáng của người em gái cách đây đã mười mấy
> năm, cái thời mà hai chị em còn ở dưới quê, trưa trưa hay ra ngồi trên
> cây dừa bắt ngang đường nước, thọc chân trong nước mát, đong đưa kể
> chuyện tâm tình… Hình ảnh đó, chị đã mang đi và giữ vẹn cho đến bây
> giờ, quên mất là thời gian đã đi qua và nét đời đã bị bôi đi vẽ lại !
> Không ngã lòng, chị tìm cách nói với mấy bà già trong xóm : "Cháu tên
> là Nguyễn thị Ánh, con em cháu tên Nguyễn thị Hoa. Tụi cháu dân ở Cầu
> Ngang, miệt dưới…" Địa danh Cầu Ngang đã giúp mấy bà nghĩ ra má con
> Mén. Một bà hỏi : "Có phải cô đó có bốn đứa con không ?" Chị Ánh mừng
> rỡ : "Đúng rồi ! Người ta nói nó có bốn đứa con, ba trai một gái !" Bà
> già gật đầu : "Vậy là má con Mén rồi !" Trước khi chỉ đường, bà trách
> nhẹ : "Kiếm má con Mén thì nói kiếm má con Mén ! Cô cứ nói Nguyễn thị
> Hoa hoài, ai mà biết ai !"
>
> Vậy là hai chị em gặp nhau. Gặp nhau thật là ngỡ-ngàng. Quá
> nhiều thay đổi để nhìn ra nhau ngay và xa cách đã quá lâu nên tình cảm
> bị chìm sâu trong tìm thức. Phải một vài giây im lặng để tìm lại những
> nét cũ trên gương mặt bây giờ và để những tình cảm bị bỏ quên từ ngày
> xưa được trả về với hiện tại. Sau phút ngỡ ngàng hai chị em ôm chầm
> lấy nhau, khóc nức-nở.
>
> --oOo--
>
> Chị Ánh đã quyết định : gia đình con Mén phải qua Phi Châu ở với
> chỉ. Nhìn tay chân ghẻ lở của bầy cháu, nhìn gương mặt già trước tuổi
> của đứa em, chị nghe bất nhẫn vô cùng. Chị nói : "Không được ! Ở lại
> đây tụi bây cùi luôn, ngu luôn. Qua bển tao lo cho hết. Còn ba tụi
> bây, từ từ rồi tính sau“ Rồi chị sắp đặt : ”Chị để lại một mớ tiền, em
> lo liệu cho mấy đứa nhỏ và đi thăm nuôi chồng em. Chừng chị về bên đó,
> chị sẽ gởi tiếp thêm để em chạy lo giấy tờ. Tốn bao nhiêu thì tốn,
> nhưng phải đi khỏi xứ này gấp”. Má con Mén như người không biết lội
> vừa chìm xuống nước ngoi lên ôm được cái phao, nhìn trời cao lồng lộng
> bên trên mà cảm nhận cuộc sống này vẫn còn có lối thoát.
>
> Chị Ánh trở về Pháp. Tụi nhỏ vẫn tiếp tục bươi đống rác ngày
> ngày để đừng ai để ý. Má con Mén chạy chọt dò dẫm rồi cũng tìm ra trại
> học tập của chồng.
>
> Lần đi thăm nuôi đầu tiên, con Mén có đi theo. Thấy ba nó gầy
> nhom, nó rớt nước mắt. Má nó kể chuyện dì Ánh cho ba nó nghe, ba nó
> vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Nhưng khi nghe hỏi ý kiến về vụ cho mấy
> đứa nhỏ sang Phi Châu, ba nó bỗng im lặng nhìn ra bìa rừng làm như câu
> trả lời nằm ở đâu ngoài đó. Một lúc sau, ba nó nói, thật trầm tĩnh :
> ”Ờ… tính như vậy cũng được. Cho mấy đứa nhỏ nó có tương lai…” Rồi ba
> nó cầm lấy hai bàn tay nhỏ của nó, vừa bóp nhẹ vừa nhìn nó thật lâu.
> Nó cũng nhìn ba nó : chưa đầy một năm mà ba nó già đi nhiều, mắt sâu
> xuống, gò má nhô lên, râu tóc rối bời… Ba nó đã làm tội tình gì mà
> “tụi nó”đày đọa ba nó ra như vậy ? Rồi nó nhìn ra mấy thằng bộ đội
> đứng lớ-ngớ ngoài kia, môi nó mím lại,mắt nó lồi ra : nó muốn lấy que
> sắt cào bươi "tụi nó” tả tơi như nó nó đã cào bươi mấy đống rác ! Từ
> đó, con Mén biết thế nào là hận thù…
>
> --oOo--
>
> Dì Ánh đã gởi về đầy đủ giấy tờ, má con Mén cũng đã nạp hồ sơ
> xin xuất cảnh qua Côte d’Ivoire (Phi Châu). Nhờ có tiền gởi về, má nó
> chạy chọt đút lót nên cũng không gặp nhiều khó khăn. Cho đến ba con
> Mén bây giờ cũng được các cán bộ dành nhiều dễ-dãi.
>
> Thời gian qua mau, mới đó mà đã hai năm mấy. Khi ba con Mén được
> thả về thì mẹ con tụi nó chỉ còn chờ ngày lên máy bay. Ba nó về mà có
> cảm tưởng như được đặc-cách cho về để đưa vợ con đi vậy. Bởi vì, sau
> đó, ba nó vẫn sẽ phải sống chật-vật một mình trong một vùng kinh-tế
> mới nào đó, và tuy không còn ở trong trại nhưng vẫn ở lại trong xứ thì
> cũng giống như bị giam trong một trại tập trung khổng-lồ.
>
> Ngày ba nó trở về, căn nhà nhỏ bỗng trở nên quá nhỏ để tiếp
> những người hàng xóm. Ai cũng mừng cho gia đình con Mén, mừng thật sự,
> bởi vì đối với họ, ba con Mén là người của đại gia đình xóm Bộng. Vậy
> mà cái đại gia đình đó vẫn chưa ai hay rằng tụi con Mén sẽ bay đi tìm
> sống tự do ở một chân trời khác. Bởi vì má con nó luôn luôn giữ kín
> chuyện này, cũng như mọi người đang lo xuất cảnh hay toan tính vượt
> biên, chẳng một ai dám hé răng.
>
> Bây giờ con Mén lớn rồi, nên nó để cái võng cho ba nó nằm. Nó
> săn sóc ba nó từng chút : lấy khăn lông nhúng nước cho ba nó lau mặt,
> nấu trà cho ba nó uống, bới cơm cho ba nó ăn. Mẹ con nó ngồi dưới đất
> vây quanh võng để nghe ba nó kể chuyện cải tạo đầy khổ nhục. Ba nó bây
> giờ hút thuốc rê như ống khói. Ba nó thấy bầy nhỏ nhìn mình châm-chú,
> nên mỉm cười phân trần như tự bào chữa : “Hồi đó ba đâu biết hút
> thuốc. Rồi trong trại, phần vì lạnh, phần vì buồn, bạn tù chia nhau
> điếu thuốc rê. Riết rồi ghiền luôn, bỏ không được”. Con Mén nghe
> thương ba nó vô cùng. Nó muốn nhào lại ôm ba nó để chia sớt ngần đó
> tháng năm chồng chất bằng đói lạnh buồn đau. Nó muốn nhào lại cầm tay
> ba nó đặt lên một bên má của nó, rồi an ủi ba nó bằng những lời lẽ
> thật là dịu thật là ngọt. Nó muốn… nó muốn… Nhưng, không hiểu sao nó
> vẫn ngồi yên nhìn ba nó mà nghẹn-ngào chảy nước mắt. Có lẽ nó tự nhận
> thấy bây giờ nó không còn là con nít nữa.
>
> --oOo--
>
> Bữa đi phi-trường thật là tội nghiệp. Cả nhà len-lén đi, không
> dám chào ai hết. Gọi là đi chánh-thức nhưng giống như là đi trốn, đi
> chui. Má con Mén dặn dò mấy đứa nhỏ thật kỹ lưỡng, rồi kết luận : “Sợ
> bà con biết rồi ba con buồn, hiểu chưa ?”
>
> Nếu bà con biết thì có lẽ bà con sẽ buồn thật. Không phải chỉ
> buồn vì xa tụi con Mén, mà còn buồn vì số phận hẩm hiu của mình, bởi
> vì không phải ai cũng được may mắn như gia đình con Mén. Điều mà má nó
> không nói ra là trong thâm tâm má nó rất ái nái khi phải bỏ xóm Bộng
> ra đi. Má nó thấy mình giống như lính đào ngủ trong khi bạn đồng đội
> đang gan lỳ chịu đựng. Ngồi trên xe đi phi trường mà má con Mén cứ lâu
> lâu lại thở dài…
>
> Phi-trường đông thật đông, Người đi không có bao nhiêu mà người
> tiễn đưa thì thật là nhiều. Kẻ đi người tiễn nào mắt cũng mọng đỏ. Họ
> đã khóc đâu từ hồi còn ở nhà hay từ hồi còn trên xe, đến đây còn thấy
> có người khóc tiếp. Dĩ nhiên buổi tiễn đưa nào cũng buồn, nhưng tiễn
> đưa mà biết rằng vĩnh viễn không gặp lại nhau nữa thì buổi tiễn đưa đó
> mới thật là đau đớn. Nó cũng giống như đi chôn người thân, cho nên có
> nhiều người ôm nhau khóc thật thảm thiết. Người đi cũng như kẻ ở đều
> chết điếng trong lòng. Lời nói chỉ còn là nước mắt.
>
> Mấy anh em con Mén lần lượt ôm ba tụi nó, khóc như mưa bấc. Con
> Mén được ba nó ôm sau cùng, ôm thật lâu… Ba nó siết chặt nó vào lòng
> mà nghe như có cái gì trạo trực từ lồng ngực đưa lên cổ. Ba nó nhắm
> nghiền mắt lại, nuốt xuống như nuốt liều thuốc đắng.
>
> Đến khi ba nó hôn nó lần cuối thì nước mắt ở đâu bỗng trào ra như
> suối. Trong một khoảnh khắc, người đàn ông quê mùa cục mịch đó bỗng
> nghe thân xác của mình tan ra thành nước, bỗng thấy tất cả đều nhòe
> nhoẹt tối đen mà mình thì đã chết đi, chết hẳn. Thời gian như ngừng
> lại rất lâu…
>
> Rồi cũng phải buông rời nhau ra để thực sự nhìn nhau lần cuối.
> Những người tiễn đứng thành hàng dài, còn rán chồm qua hàng rào ngăn
> cách để núm níu người đi. Chỉ trong vài giây ngắn ngủi đó, tất cả đau
> thương cô đọng lại thành tiếng nấc, rồi người ta khóc to lên không còn
> cần giữ ý tứ gì nữa. Giống như lúc liệng nắm đất lên mặt quan tài nằm
> sâu dưới huyệt. Ở đây, đúng là “người đi” đi vào một thế giới khác.
>
> Ba con Mén nhìn theo vợ con bước vào bên trong, khoảng cách không
> có bao nhiêu nhưng sao thấy xa mút như đầu con kinh đào ở xóm Cầu
> Ngang. Con kinh đào mà thuở ấu thơ ba nó đã từng nô đùa tắm mát bây
> giờ cũng xa lắm nhưng còn có ngày ba nó nhìn thấy lại, chớ vợ con thì…
> Ba nó ngừng suy tư ở đó để vẫy tay lần cuối trước khi vợ con bước qua
> khuôn cửa kiếng. Cánh cửa đóng lại khô khan như gương mặt mấy thằng
> công an đứng gần quanh đó, dửng dưng như chẳng có chuyện gì xảy ra !
> Trong phòng đợi, con Mén lẩm nhẩm đánh vần khẫu hiệu được vẽ to trên
> tường bằng sơn đỏ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
>
> --oOo--
>
> Tôi quen con Mén ở Abidjan, thủ đô xứ Côte d’Ivoire. Má nó đưa
> anh em nó lại để học Pháp văn với tôi, cùng với những đứa con của mấy
> gia đình tỵ nạn khác.
>
> Con Mén bây giờ không còn “mén” nữa. Nó tròn-trịa ra, đôi má
> phinh-phính hồng. Tóc bây giờ đã để dài chấm vai, đuôi tóc quớt quớt.
>
> Khi đã quen thân, con Mén tỉ-tê kể cho tôi nghe từng mẫu chuyện
> nhỏ trong cuộc đời của nó, nhớ đâu kể đó, không thứ tự lớp lang. Nhưng
> phần lớn, chính má nó kể lại, tỉ mỉ hơn, nhứt là đoạn nó còn nhỏ.
> Những lúc con Mén kể chuyện, mặt nó tươi ra, rạng rỡ, mắt nó ngời lên
> tinh-anh. Và khi nó nói về ba nó, nó không thiếu một chi tiết. Lâu lâu
> nó ngừng lại để chêm vào : “Cũng tại tụi Việt Cộng hết !” Đến những
> đoạn bi-thảm của ba nó, có khi nó ngừng kể, mắt nó đầy căm thù, tiếng
> nó bị nghiến lại trong răng. Tôi đoán nó đang chửi thầm : “Mồ tổ cha
> nó !”
>
> Một hôm, nó nói với tôi :
> - Bác Hai nè ! Bác đừng nói với ai hết nghen. Con muốn nhờ bác dạy con
> chữ quốc-ngữ nữa. Hồi đó con mới học hết lớp một rồi nghỉ học luôn tới
> giờ nên con còn dốt lắm !
>
> Rồi nó chớp chớp mắt, giọng nói bỗng trở nên trìu mến :
> - Con muốn học quốc ngữ để con viết thơ cho ba con…
>
> Câu nói đó đã làm tôi xúc động đến ứa nước mắt !
>
> Từ bao lâu nay, người tỵ nạn chỉ nhờ tôi dạy Anh văn hay Pháp
> văn. Đây là lần đầu tiên trong đời lưu vong, tôi được người nhờ dạy
> quốc-ngữ. Lại là một cô gái nhỏ. Và cô học chỉ để viết thơ về cho cha
> cô ở Việt Nam ! Giản dị như vậy. Vậy mà sao tôi có cảm tưởng như tôi
> vừa được nhắc đến quê hương, nhắc bằng chữ i, chữ tờ… Và được thấy lại
> một nét quê hương qua hình ảnh người con muốn viết thơ về cho cha vì
> vẫn không muốn cắt lìa cuống rún !
>
> Tôi nhìn con Mén mà thấy thương thấy quí nó vô cùng. Nó không
> hiểu cái nhìn của tôi nên gật gật đầu, lập lại :
> - Con muốn viết thơ cho ba con.
>
> Tôi cầm hai bàn tay nó bóp nhẹ :
> - Ờ… Bác sẽ dạy con… Bác sẽ dạy con…
>
> Trên gương mặt phinh phính của con Mén, nở ra một nụ cười rạng
> rỡ. Chắc nó đang nghĩ đến ba nó, đến cái ngày mà nó có đủ chữ đủ câu
> để nắn nót viết cho ba nó những bức thơ dài…
>
> Ở Abidjan không có sách giáo khoa Việt Nam. Tôi phải nhờ một
> người bạn ở Paris mua gởi sang. Từ đó, ngày ngày tôi dạy riêng con Mén
> mà có cảm tư

Pour être informé des derniers articles, inscrivez vous :
Commenter cet article